Thời đại Quang Tự Từ_Hi_Thái_hậu

Vua mới lên ngôi

Quang Tự Đế

Đồng Trị không con mà chết, chính quyền rơi vào tình trạng bất ổn, vì phải chọn ra người thích hợp để thừa kế. Vì Đồng Trị Đế là con trai độc nhất của Hàm Phong, nên tính ra thứ hệ là dòng dõi Hàm Phong đã tuyệt tự. Sau khi Đồng Trị băng hà khoảng 2 canh giờ, tại Tây Noãn các của Dưỡng Tâm điện đã diễn ra họp mặt của các Hoàng thúc, gồm: Đôn Thân vương Dịch Thông, Cung Thân vương Dịch Hân, Thuần Thân vương Dịch Hoàn, Phu Quận vương Dịch Huệ cùng các đại thần khác như Dịch Khuông, Cảnh Thọ. Đầu tiên có người thỉnh vì Đồng Trị Hoàng đế lập tự, hơn nữa nhắc tới Phổ Khản, Phổ Luân là 2 người có khả năng, nhưng Đôn Thân vương phản đối và nói "Thân thích họ xa thì không được", thế rồi Từ Hi Thái hậu liền nhân đó tán thành, liền cơ hội đề nghị Tải Điềm (載湉), con trai của Thuần Thân vương cùng em gái của bà là Uyển Trinh. Từ An Hoàng thái hậu cuối cùng cũng đồng ý.

Sau đó, ngày 7 tháng 12, Tải Điềm lên ngôi tại Dưỡng Tâm điện, tức là Thanh Đức Tông Quang Tự Hoàng đế. Lưỡng cung Hoàng thái hậu tiếp tục thùy liêm thính chính, chỉ dụ của Lưỡng cung gọi là Ý chỉ (懿旨), còn của Hoàng đế gọi là Dụ chỉ (谕旨)[22]. Lúc này, Từ An Hoàng thái hậu bắt đầu ngụ ở Đông lục cung Chung Túy cung, còn Từ Hi Hoàng thái hậu trú tại Trường Xuân cung.

Năm Quang Tự nguyên niên (1875), ngày 20 tháng 1, Lưỡng cung Hoàng thái hậu ý chỉ để Tải Điềm chính thức đăng quang tại Thái Hòa điện, tế cáo thiên địa, Tông miếu, Xã tắc. Sau khi đăng ngai, Hoàng đế đến Càn Thanh cung lạy trước ngự dung của Đồng Trị Đế, sau đó đến Chung Túy cung lạy Từ An Hoàng thái hậu, Trường Xuân cung lạy Từ Hi Hoàng thái hậu, và đến Trữ Tú cung lạy Gia Thuận Hoàng hậu.

Từ Hi Thái hậu ép Quang Tự Đế gọi Từ An Thái hậu là [Hoàng ngạch niết; 皇額捏], còn gọi mình là [Thân ba ba; 親爸爸] với mục đích xác lập vị trí trụ cột cho bản thân[23]. Lên ngôi khi còn trẻ, Quang Tự Đế bắt đầu việc học hành khi lên 5 tuổi dưới sự hướng dẫn của Ông Đồng Hòa, người sau này trở thành bạn thân và một vị đại thần tin cẩn của Hoàng đế.

Năm Quang Tự thứ 2 (1876), ngày 3 tháng 7, dâng thêm huy hiệu 4 chữ, toàn xưng là Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Chiêu Dự Trang Thành Hoàng thái hậu (慈禧端佑康颐昭豫莊誠皇太后).

Bệnh tật và cái chết của Từ An Thái hậu

Từ An Hoàng thái hậu.

Năm Quang Tự thứ 6 (1880), Từ Hi Thái hậu lại lâm bệnh nặng[24], theo nhiều bằng chứng thì đó là bệnh kiết lỵ. Cơn bệnh này của Từ Hi Thái hậu kéo dài từ giữa năm đến cuối năm ấy, sau một thời gian tạm thời ổn định thì qua năm Quang Tự thứ 7 đầu năm lại tái phát[25]. Lần tái phát này thực sự nghiêm trọng, vì căn cứ cung đình ghi chép, đã có dấu hiệu chuẩn bị an táng. Cùng năm Quang Tự thứ 7 ấy, ngày 10 tháng 3 (tức ngày 8 tháng 4 dương lịch), Từ An Thái hậu cảm thấy không khỏe nên không đến Dưỡng Tâm điện nghe chính, đêm đó đột nhiên qua đời tại Chung Túy cung trong sự kinh ngạc của triều thần, hưởng thọ 44 tuổi.

Mặc dù trẻ hơn Từ Hi Thái hậu tới 2 tuổi, nhưng với địa vị chí Trung cung Hoàng hậu của Hàm Phong Đế, Từ An Thái hậu là người quyết định hầu hết các vấn đề trong nội bộ hoàng tộc. Một số giả thuyết cho rằng đã có sự rạn nứt trong mối quan hệ giữa 2 vị Thái hậu sau khi Từ An Thái hậu chém đầu thái giám thân cận của Từ Hi là An Đức Hải khi trước, sau đó là việc đại hôn của Đồng Trị Đế - khi Hoàng đế đã chọn A Lỗ Đặc thị mà Từ An Thái hậu chọn lựa, hơn là Phú Sát thị người được Từ Hi Thái hậu yêu mến.

Do Từ An Thái hậu qua đời quá nhanh, nghi vấn về sự liên quan của Từ Hi Thái hậu trong cái chết của bà là không tránh khỏi. Có lời đồn cho rằng chính Từ Hi Thái hậu đã thủ tiêu bà vì bà có di chiếu bí mật của Hàm Phong Đế để lại trước khi băng hà. Đây cũng chính là lời đồn đoán được lưu truyền phổ biến nhất về cái chết của bà[26]. Lời đồn nói rằng: ngay trước khi lâm chung, Hàm Phong Đế đã cảm thấy Từ Hi về sau ắt tạo loạn, nên bí mật lập chiếu dụ, dặn dò Từ An Thái hậu nếu Từ Hi cậy tử làm xằng làm bậy thì lấy đạo dụ này ra, căn cứ theo tổ tông gia pháp mà trị tội. Sau khi Hàm Phong Đế băng hà, Từ An Thái hậu từng gọi Từ Hi Thái hậu đến và đưa ra mật dụ, lấy cảnh báo tỉnh, khiến Từ Hi nơm nớp lo sợ. Vì thế, suốt thời Đồng Trị, Từ Hi Thái hậu an phận thủ thường, đối với Từ An Thái hậu muôn phần cung kính, không hề làm trái. Do thấy Từ Hi Thái hậu như vậy phụng dưỡng mình, Từ An Thái hậu dần tháo bỏ cảnh giác.

Một ngày, Từ An Thái hậu bị bệnh, uống thuốc khác không khỏi, nhưng đến khi ăn thứ của Từ Hi Thái hậu thì kỳ diệu khỏi hẳn. Phấn chấn, Từ An đi dạo Di Hòa Viên, thấy cánh tay Từ Hi Thái hậu băng bó mới tra hỏi. Từ Hi thuật lại việc mình cắt cổ tay làm mồi nhử thuốc cho Từ An uống, trần tình rất là thống khổ cảm động. Từ An là người nhân từ, nghe thế rất cảm động, mới hồi cung, trước mặt Từ Hi Thái hậu mà đốt mật dụ năm nào. Sau đó, Từ Hi Thái hậu không còn kiêng dè gì, câu kết Thái y hại chết Từ An Thái hậu, dần giành quyền độc bá triều chính. Câu chuyện này thậm chí ghi vào Sùng Lăng truyện tín lục (崇陵传信录), về sau dù cho có vài dị bản của câu chuyện đi nữa, nhưng những giả thiết cùng dị bản ấy đều thống nhất rằng: [Từ Hi đã giết chết Từ An]. Tuy nhiên, đó chỉ là một dạng tác phẩm văn học dân gian, bị ảnh hưởng qua rất nhiều đồn đoán, sự thực không thể tham khảo được. Do thiếu nhiều bằng chứng nên các nhà sử học vẫn chưa thống nhất về câu chuyện này.

Từ khi Lưỡng cung thính chính, vấn đề lớn nhất từng giải quyết là Thái Bình Thiên Quốc, dù có cực kỳ lớn thế nhưng vẫn chỉ gói gọn ở [Nội loạn]. Sau khi Từ An Thái hậu băng hà, Từ Hi Thái hậu một mình nhiếp chính, Đại Thanh bước vào liên miên những vấn đề chiến tranh với nước Phápnước Anh, chiến tranh Giáp Ngọ,... áp lực đều không như nhau. Từ năm 1881 tới 1883, Từ Hi Thái hậu chủ yếu trao đổi với các đại thần qua văn bản[27] Thêm vào đó, Quang Tự Đế có cũng vài lần buộc thiết triều mà không có Từ Hi Thái hậu ở đằng sau thính chính.

Giáp Thân dịch xu

Thuần Thân vương Dịch Hoàn - cha đẻ của Quang Tự

Sự kiện [Giáp Thân dịch xu; 甲申易枢] là một trong 3 chính biến lớn nhất mà Từ Hi Thái hậu tham dự (lần đầu chính là Chính biến Tân Dậu, và lần cuối là Chính biến Mậu Tuất). Sự việc này xảy ra khi Từ Hi Thái hậu đột ngột biếm truất Cung Thân vương Dịch Hân.

Năm Quang Tự thứ 10 (1884), Trữ Tú cung được trùng tu quy mô lớn, nối với Dực Khôn cung ở phía Nam vào làm một. Từ Hi Thái hậu dọn từ Trường Xuân cung sang ở cung điện mới này để tỏ rõ danh phận của mình. Cũng vào chính lúc đó, Cung Thân vương Dịch Hân - người đã từng nắm giữ vị trí lãnh đạo triều đình, cảm thấy bị đe dọa bởi sự chuyên quyền của Từ Hi Thái hậu. Ông tự mình quyết định nhiều vấn đề, trong đó đỉnh cao là tuyên chiến với nước Pháp, dẫn đến Chiến tranh Pháp - Thanh mà Trung Quốc là kẻ bại trận. Nhân cơ hội này, Từ Hi Thái hậu loại bỏ Cung Thân vương và những người ủng hộ ông trong Quân cơ xứ, bao gồm Bảo Vân (宝鋆), Lý Hồng Tảo (李鸿藻) cùng Cảnh Liêm (景廉). Thầy dạy của Quang Tự Đế là Ông Đồng Hòa cũng bị cách chức, rời khỏi Quân cơ xứ.

Tháng 3 năm ấy, Từ Hi Thái hậu giáng Cung Thân vương xuống chức Cố vấn, bắt giam lỏng tại nhà riêng, cắt hết lương bổng Thân vương. Cùng một ngày, lại ban phát chỉ dụ:

礼亲王世铎著在军机大臣上行走,毋庸学习御前大臣,亦毋庸带领豹尾枪。户部尚书额勒和布、阎敬铭、刑部尚书张之万,均著在军机大臣上行走,工部侍郎孙毓汶著在军机大臣上学习行走。命世铎主持军机处,庆郡王奕劻主持总理衙门,并命遇有重大事件,先与醇亲王商办。

.

Lễ thân vương Thế Đạc nhậm Quân cơ đại thần thượng hành tẩu, không cần học tập Ngự tiền đại thần. Hộ bộ Thượng thư Ngạch Lặc Hòa Bố, Diêm Kính Minh, Hình bộ Thượng thư Trương Chi Vạn, đều tại Quân cơ đại thần hành tẩu. Công bộ Thị lang Tôn Dục Vấn tại Quân cơ đại thần học tập hành tẩu. Mệnh Thế Đặc chủ trì Quân cơ xứ, Khánh quận vương Dịch Khuông chủ trì bộ Ngoại giao, cũng mệnh hễ có sự kiện trọng đại, tất thương nghị với Thuần thân vương.

— Chỉ dụ Từ Hi Thái hậu cải tổ Quân cơ xứ

Như vậy, Từ Hi Thái hậu đã mượn cuộc bại chiến này với nước Pháp để gạt bỏ Cung Thân vương, cũng như thay thế toàn bộ Quân cơ xứ - cơ quan có quyền điều hành Đại Thanh nhất. Bà thay thế Cung Thân vương bởi Thuần Thân vương Dịch Hoàn - cha ruột của Quang Tự Đế. Thuần Thân vương Dịch Hoàn sau đó được bổ nhiệm vào một số vị trí quan trọng khác, trong đó có Đô đốc Hải quân. Với nỗ lực chứng tỏ sự trung thành và để bảo vệ con trai của mình đang ở bên Từ Hi Thái hậu, ông đã quyết định dùng số tiền nâng cấp hải quân để xây dựng Di Hòa Viên làm nơi Từ Hi Thái hậu sẽ an dưỡng tuổi già.

Đối với chính biến lần này của Từ Hi Thái hậu, đương thời đánh giá tiêu cực, vì cả ba người Thế Đạc, Dịch Hoàn cùng Dịch Khuông đều là những người không mấy tài cán lại nhu nhược, so về ý chí cũng như khả năng ngoại giao đều thua xa Cung Thân vương. Dẫu vậy, do Cung Thân vương đe dọa quá lớn đến vị trí của mình, Từ Hi Thái hậu thà chọn những người tài năng có hạn còn hơn là một vị Thân vương có quá nhiều danh tiếng lừng lẫy. Đương thời dân gian có câu châm chọc: [Dịch trung xu dĩ nô mã, đại lô phục dĩ sài hồ; 易中枢以驽马,代芦服以柴胡]. Trong đó, [nô mã] tức là "con ngựa ngu", còn [sài hồ] là một loại cỏ cao hơn cỏ lau một chút; ý tứ của câu này "Bỏ tốt lấy dốt", so sánh toàn thể Quân cơ xứ chỉ là một đám bù nhìn của Từ Hi Thái hậu. Từ đây trở đi, quyền lực của Từ Hi Thái hậu lại dần được mở rộng, không còn ai có thể ngăn cản bà chuyên quyền được nữa, dù cho là Quang Tự Đế[28].

Đại hôn của Quang Tự Đế

Cháu gái của Từ Hi Thái hậu - Hoàng hậu Diệp Hách Na Lạp thị

Theo nguyên tắc, Quang Tự Đế bắt đầu được cai trị độc lập khi lên 16 tuổi, lúc đó Lưỡng cung Thái hậu sẽ thôi nhiếp chính và triệt liêm hoàn chính cho Hoàng đế, điều này đã là một "khế ước" vào ngày Quang Tự Đế được đón vào cung. Mỗi ngày mỗi tháng Quang Tự Đế trưởng thành, quyền lực của Từ Hi Thái hậu cũng dần giảm đi.

Năm Quang Tự thứ 12 (1886), ngày 10 tháng 6 (âm lịch), trong [Ý chỉ] của Từ Hi Thái hậu đã nhắc lại khế ước năm xưa, ngoài ra còn nói: ["Khâm Thiên giám lựa chọn ngày lành, sang năm cử hành đại điển đăng cơ cho Hoàng đế"]. Ngoài mặt, Từ Hi Thái hậu ra vẻ không tham quyền lực, luôn sẵn sàng trao lại quyền cho Hoàng đế, thế nhưng thực tế bà lại ngấm ngầm muốn tìm biện pháp mình có thể tiếp tục nắm đại quyền mà không quá lộ liễu như việc buông mành nhiếp chính.

Thuần Thân vương Dịch Hoàn, sau sự kiện [Giáp Thân dịch xu] có thể thay thế Cung Thân vương vào Quân cơ xứ, do đó ông bị buộc phải trở thành tâm phúc của Từ Hi Thái hậu. Với bản tính thận trọng, nên Dịch Hoàn đã sớm nhìn ra ý tứ này của bà. Thế là chỉ 5 ngày sau khi [Ý chỉ] trên được ban ra, Dịch Hoàn dẫn các đại thần của Quân cơ xứ tấu thỉnh Hoàng thái hậu thực hiện [Huấn chính; 訓政] như Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế khi xưa. Trong tấu chương còn chỉ rõ: ["Cần thiết dần thay đổi quy chế hiện tại, trước hết mời Ý chỉ, sau tấu lên Hoàng đế"; 必须永照现在规制,一切事件,先请懿旨,再于皇帝前奏闻]. Vào tháng 10 năm ấy, Lễ Thân vương Thế Đạc vào cung dâng tấu, xin Từ Hi Thái hậu "huấn chính", còn ghi rõ ra trình tự huấn chính như sau: ["Phàm hễ triều kiến dẫn kiến, Hoàng thái hậu thăng tọa huấn chính"; 凡遇召见引见,皇太后升座训政]. Vòng vo một hồi, rốt cuộc Từ Hi Thái hậu vẫn tiếp tục nắm quyền ["giáo huấn"] Hoàng đế các sự việc quan trọng. Tuy vậy, việc này cuối cùng cũng bị chính Từ Hi Thái hậu khước từ, tỏ vẻ không muốn[29][30][31].

Năm Quang Tự thứ 13 (1887), tháng giêng, Quang Tự Đế chính thức cử hành đại điển thân chính[32][33].

Năm Quang Tự thứ 14 (1888), Quang Tự Đế đã 18 tuổi, có thể coi là già trong truyền thống cưới hỏi của cung đình Trung Hoa. Từ Hi Thái hậu đã đưa cháu gái ruột của mình, Diệp Hách Na Lạp Tĩnh Phân tham gia Bát Kỳ tuyển tú. Sau cuộc tuyển tú diễn ra vào năm ấy, Từ Hi Thái hậu tuyên bố lễ đại hôn giữa Quang Tự Đế và Diệp Hách Na Lạp thị, ngày định hôn là ngày 27 tháng giêng, năm Quang Tự thứ 15 (tức ngày 26 tháng 2 năm 1889 dương lịch).

Trân phi Tha Tha Lạp thị - sủng phi của Quang Tự Đế

Quá trình tuyển vòng cuối, quyết định Hậu và phi tần được diễn ra ở Thể Hòa điện (體和殿), và câu chuyện này được lưu truyền qua rất nhiều dã sử. Trong đó, phổ biến nhất là câu chuyện truyền miệng từ một vị Thái giám đời Dân Quốc. Lúc này, Quang Tự Đế tuyển chọn 5 tú nữ còn lại là Diệp Hách Na Lạp thị, 2 chị em thuộc gia tộc Tha Tha Lạp thị (他他拉氏), con gái Tả Thị lang bộ Lễ Trường Tự (長敘) cùng hai con gái của Tuần phủ Đức Hinh (德馨)[34]. Quang Tự Đế đặc biệt để mắt đến con gái của Đức Hinh, định trao ngọc tỷ song Từ Hi Thái hậu kịch liệt phản đối, bắt Quang Tự Đế trao cho cháu gái mình. Vì vậy, Diệp Hách Na Lạp thị được phong Hậu, hai con gái nhà Tha Tha Lạp thị, người em được phong Trân tần, cùng với chị gái phong Cẩn tần, hai con gái nhà Đức Hinh hoàn toàn bị loại. Tuy câu chuyện truyền miệng này khá phổ biến, song căn cứ theo thư tịch tuyển tú, số lượng tú nữ được tuyển thời đó phải có tầm 30 người. Số lượng 5 người như vậy là nhỏ nên thiếu căn cứ, không đáng tin.

Đang lúc hậu cung chuẩn bị đại lễ thì việc hệ trọng xảy ra: ngày 15 tháng 12 cuối năm ấy (tức ngày 16 tháng 1 năm 1889), lửa cháy phát sinh thiêu trụi Thái Hòa môn (太和門). Thái hậu mặc kệ, bắt buộc lễ thành hôn của Diệp Hách Na Lạp thị phải tuân theo quy tắc hôn lễ dành cho Hoàng hậu Đại Thanh, tức kiệu của Hoàng hậu được chở qua Đại Thanh môn (大清門) rồi Thái Hòa môn nhập cung. Do vậy, Thái hậu sai người đẩy nhanh tốc độ sửa chữa, làm một tòa cửa lớn đánh tráo giả Thái Hòa môn. Sự việc được giải quyết khéo léo, nhìn bên ngoài không ai phát hiện ra đây là cửa giả[35]. Đúng ngày 27 tháng 1 năm Quang Tự thứ 15, Diệp Hách Na Lạp thị được lập làm Hoàng hậu.

Vốn không có tình cảm, Quang Tự luôn lấy cớ bệnh trong người để xa lánh Hoàng hậu. Tuy một phần vì dung mạo bà tầm thường, lại lớn hơn ông 3 tuổi, nhưng nguyên nhân chính của việc này là vì Hoàng hậu vốn là cháu gái của Từ Hi Thái hậu, người luôn khắt khe và áp đặt Quang Tự Đế mọi việc nên khiến ông cảm thấy bất an. Ngược lại, Quang Tự Đế vô cùng sủng ái Trân tần, nhanh chóng tấn phong Trân phi.

Rút lui vào hậu trường

Di Hòa viên

Năm Quang Tự thứ 15 (1889), sau khi diễn ra đại hôn, Từ Hi Thái hậu chuẩn bị hoàn chính. Ngày 3 tháng 2 (tức ngày 5 tháng 3 dương lịch), Từ Hi Thái hậu tuyên bố rút lui khỏi chuyện triều chính.

Ngày 16 tháng 2, nhân Quang Tự Đế tự mình chấp chính, dâng 2 chữ Thọ Cung (壽恭). Ngày 15 tháng 3, lại nhân đại hôn định thêm 2 chữ Khâm Hiến (欽獻), toàn xưng Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Chiêu Dự Trang Thành Thọ Cung Khâm Hiến Hoàng thái hậu (慈禧端佑康颐昭豫莊誠壽恭欽獻皇太后).

Theo đó, Từ Hi Thái hậu phải rời khỏi Tử Cấm Thành đến Di Hòa Viên, danh nghĩa [Bảo dưỡng tuổi thọ]. Nhưng với tư cách là người đứng đầu hoàng gia, Từ Hi Thái hậu vẫn thường xuyên ban thưởng cho các đại thần và còn mời họ vào hoàng cung xem Kinh kịch, và những người này tỏ ra trung thành với Từ Hi Thái hậu hơn là với Hoàng đế. Ngay cả khi Từ Hi đã lui về nghỉ ở Di Hòa Viên, Quang Tự Đế và bá quan vẫn phải thường xuyên lui tới vấn an bà, chính qua những lần thăm hỏi này mà các vấn đề quốc gia đại sự sẽ được quyết định với sự can thiệp của Thái hậu. Ông Đồng Hòa nhận xét, Quang Tự Đế chỉ có thể tự mình giải quyết các tấu chương lặt vặt thường ngày, trong khi Quân cơ xứ cố vấn Hoàng đế khi gặp phải các vấn đề quan trọng hơn, còn với những trường hợp đặc biệt quan trọng vẫn phải xin ý kiến của Thái hậu[36].

Năm Quang Tự thứ 20 (1894), cuộc chiến tranh Trung - Nhật bùng nổ. Quang Tự Đế vốn thiếu kinh nghiệm chính trị lẫn quân sự nên triều đình phải quay sang nhận chỉ đạo của Từ Hi Thái hậu. Tuy nói là đã rút lui vào hậu trường, nhưng vai trò của Từ Hi Thái hậu thực tế lại không hề thua kém so với trước kia, nếu không muốn nói là ngày càng mạnh hơn.

Năm Quang Tự thứ 21 (1895), đại thọ thứ 60 của Từ Hi Thái hậu. Này 15 tháng 8, dâng thêm tôn hiệu hai chữ Sùng Hi (崇熙), toàn xưng Từ Hi Đoan Hựu Khang Di Chiêu Dự Trang Thành Thọ Cung Khâm Hiến Sùng Hi Hoàng thái hậu (慈禧端佑康颐昭豫莊誠壽恭欽獻崇熙皇太后).

Dựa trên các lễ đại thọ lần thứ 70 và 80 tổ chức cho Hiếu Thánh Hiến Hoàng hậu, Từ Hi Thái hậu dự định tổ chức một buổi lễ xa hoa bao gồm trang trí trục đường nối liền Di Hòa Viên và Tử Cấm Thành, biểu diễn văn nghệ miễn phí cho bá tánh, đồng thời đại xá thiên hạ[37]. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh Trung Nhật kéo dài buộc Từ Hi Thái hậu phải từ bỏ kế hoạch này và chỉ tổ chức một buổi lễ nhỏ ở trong cung.

Bách nhật duy tân và Mậu Tuất chính biến

Quang Tự Đế những ngày trưởng thành.

Sau vụ Thanh Nhật chiến tranh, thấy một nước lớn như Trung Quốc mà bị một nước nhỏ xưa nay mình vẫn khinh khi là Nhật Bản đánh thua, người Trung Hoa nhận ra rằng công cuộc tự cường hơn hai chục năm không có kết quả gì cả, vũ khí không đủ để cứu nước, phải cải cách từ gốc, thay đổi chế độ, như Vương Thao đã cảnh cáo thì mới được. Họ cổ vũ canh tân chính trị, tổ chức lại điều đình, giảm phung phí trong xã hội, bỏ hệ thống khoa cử cũ, tuyển nhân tài theo cách mới. Do đó mà có cuộc vận động duy tân (đổi mới) khắp trong nước. Các tài liệu lịch sử gọi sự kiện này là [Mậu Tuất biến pháp; 戊戌变法] hay Bách nhật Duy tân [百日維新; có nghĩa là "100 ngày cải cách"].

Hai người đề xướng sự kiện này là Khang Hữu ViLương Khải Siêu đưa ra khẩu hiệu "toàn biến, tốc biến" (thay đổi triệt để và mau). Lương Khải Siêu làm đại biểu cho một nhóm 190 cử nhân Quảng Đông lên kinh thi, dâng thư lên triều đình bàn về thời cuộc. Khang Hữu Vi cùng nhóm 1,300 cử nhân khác dâng thư xin biến pháp. Rồi hai nhóm họp làm một. Kể từ thế kỷ XII đời Nam Tống (trên bảy thế kỷ), bây giờ mới lại thấy một phong trào học sinh dâng thỉnh nguyện lên vua. Lần này, thỉnh nguyện của nhóm Khang, Lương không được chấp nhận.

Năm Quang Tự thứ 22 (1896), Khang Hữu Vi lần nữa dâng thư xin biến pháp. Lần này ông đạt được đến Quang Tự Đế qua Ông Đồng Hòa.

Quang Tự Đế lúc này tuy đang tự mình nắm quyền, nhưng Từ Hi Thái hậu dù lui về nghỉ ở Di Hòa Viên vẫn theo dõi hành động của ông, điều này càng khiến Hoàng đế nôn nóng tìm biện pháp mà mình có thể tự mình nắm quyền, rồi tiến hành biến pháp. Hoàng đế vào lúc đó tuy e sợ thế lực của Thái hậu, nhưng nhiệt tâm muốn cải cách nên cho mời Khang Hữu Vi và Lương Khải Siêu lên kinh bàn việc. Ông tiếp Khang-Lương suốt một buổi, phong cho họ chức tước để cùng mưu việc biến pháp. Đề nghị nào họ đưa ra Quang Tự Đế cũng chấp nhận: cải cách việc triều đình cho mới mẻ, bỏ lối văn bát cổ trong các khoa thi mà lấy môn luận về thời vụ thay vào, lập học hiệu, khuyến khích kẻ viết sách mới và kẻ chế khí cụ mới, bỏ những nha thự ít việc, luyện tập quân đội theo lối mới, trù lập ngân hàng, làm đường xe lửa, khai mỏ, mở nông và công nghiệp, lập hội buôn, mỏ rộng đường ngôn luận, cầu nhân tài...

Năm Quang Tự thứ 24 (1898), tháng 4, Quang Tự Đế tiến hành cuộc duy tân. Thế rồi trong khoảng chưa đầy ba tháng, hơn một trăm đạo chiếu được ban ra, làm cho cả trong triều lẫn ngoài tỉnh xôn xao. Những thay đổi này là quá đột ngột đối với tình hình xã hội nói chung của Trung Quốc. Ngoài ra, duy tân tiến hành mà không có chính sách và chủ trương cụ thể. Hoàng đế nghe Khang Hữu Vi gợi ý gì thì nghe đó, Khang Hữu Vi thì thấy các nước Âu - Nhật làm sao thì làm y như vậy mà thiếu sự cân nhắc cho phù hợp với hoàn cảnh đặc thù của đất nước. Bên cạnh đó, có một số ý kiến nghi ngờ vai trò của Nhật Bản trong việc lợi dụng sự cả tin của Quang Tự Đế và Khang Hữu Vi để làm lệch hướng cuộc biến pháp theo hướng có lợi cho Nhật[38].

Quang Tự Đế đang quỳ trước Thái hậu. Tranh vẽ bởi Katharine Carl.

Khang Hữu Vi biết rằng nhóm cựu thần tất phản đối, nên khuyên Hoàng đế đừng vội bỏ hết các nha môn, mà giữ họ lại, phong đất cho họ để không mất lộc. Nhưng Từ Hi Thái hậu hay biết, liền bổ nhiệm một người cùng phe là Vinh Lộc - Tổng đốc Trực Lệ, chỉ huy quân đội ở Bắc Kinh để củng cố thế lực của bà. Quang Tự cương quyết bảo: "Không cho ra biến pháp thì giết ta còn hơn!". Đàm Tự Đồng thấy Thái hậu cản trở công cuộc đổi mới, khuyên Quang Tự đoạt lại chính quyền. Nghe lời Đàm Tự Đồng, Quang Tự triệu Viên Thế Khải lúc đó đang thống lĩnh 7.000 quân tâm phúc về Bắc Kinh bàn việc, có ý dùng quân của Viên để bao vây Di Hòa Viên. Thậm chí Khang Hữu Vi còn có ý định ám sát Từ Hi Thái hậu.

Chẳng may, sự việc bị tiết lộ do sự phản bội của Viên Thế Khải. Ngày 3 tháng 8 (âm lịch), Vinh Lộc đến Di Hòa Viên báo tin cho Từ Hi Thái hậu, thế là bà vội vàng từ Di Hòa Viên trở về Bắc Kinh, họp Quang Tự Đế và các đại thần lại, bắt Hoàng đế quỳ một bên, các đại thần quỳ một bên, trừng mắt, lớn tiếng mắng Hoàng đế rồi quay sang phía các đại thần mắng là bất lực, không tận tâm với quốc sự... Từ Hi Thái hậu sau đó đem hoàng đế giam lỏng ở Doanh Đài, đồng thời tuyên bố ông bị bệnh, không thể tiếp tục việc triều chính.

Ngày 6 tháng 8 (âm lịch), Từ Hi Thái hậu khôi phục việc thùy liêm, ở tiện điện tiến hành [Huấn chính][39]. Sự trị vì của Quang Tự Đế đến đây cơ bản là chấm dứt, Từ Hi Thái hậu hạ lệnh bắt đám người Khang-Lương, đấy gọi là [Mậu Tất chính biến]. Lúc ấy, Khang Hữu Vi hay tin trước bèn bỏ trốn. Lương Khải Siêu, sau khi việc xảy ra mới trốn qua Nhật. Riêng Đàm Tự Đồng không chịu trốn, muốn lấy máu mình nuôi cách mạng, nên bị giết với năm người nữa: Khang Quảng Nhân (em Khang Hữu Vi), Lưu Quang Đệ, Lâm Húc, Dương Nhuệ, Dương Thâm Tú, đương thời xưng gọi [Lục quân tử; 六君子]. Khang Hữu Vi ở Nhật lập đảng Bảo hoàng mong lật đổ Từ Hi Thái hậu, phò trợ Quang Tự lên cầm quyền; Lương Khải Siêu còn xuất bản tờ báo "Thanh Nghị" mạt sát Thái hậu thậm tệ.

Ngày 8 tháng 8 (âm lịch) năm ấy, Từ Hi Thái hậu chính thức làm lễ lâm triều huấn chính. Quang Tự Đế bị giam cầm ở Hàm Nguyên điện (涵元殿) tại Doanh Đài, Trung Nam Hải.

Đối với Quang Tự Đế, Từ Hi Thái hậu đã có ý bỏ rơi, một trong những hành động thể hiện rõ nhất chính là bà đã chọn Phổ Tuấn (溥儁) - con của Đoan Quận vương Tái Y (载漪) vào cung, tôn gọi [Đại a ca; 大阿哥]. Đây có thể nói là bước đầu của việc lập Trữ, sử gọi là [Kỷ Hợi kiến trữ; 己亥建储]. Tuy nhiên, ý đồ này của Từ Hi Thái hậu nhanh chóng thất bại do không được sự đồng tình của thành viên hoàng thất, cũng như là thế lực của các cường quốc bên ngoài.

Khởi nghĩa Nghĩa Hòa Đoàn

Cục diện Khởi nghĩa Nghĩa Hòa ĐoànLính Mỹ tấn công thành Bắc Kinh

Năm Quang Tự thứ 26 (1900), phong trào Nghĩa Hòa Đoàn bùng nổ ở miền Bắc Trung Quốc, Liên quân tám nước tham chiến. Tôn chỉ của phong trào là chống lại sự bành trướng thế lực nước ngoài trong các lĩnh vực giao thương, chính trị, văn hóa, công nghệ, và Thiên chúa giáo.

Chính quyền của Từ Hi Thái hậu vốn đã ác cảm với phương Tây, ban đầu tỏ ra ủng hộ phong trào. Thế là, trong ngày 20 tháng 5 đến ngày 23 tháng 5, Từ Hi Thái triệu trong vòng 4 ngày không ngừng nghỉ triệu tập các Quân cơ đại thần họp bàn tại Dưỡng Tâm điện để bàn luận chính sự. Quang Tự Đế ở bên hầu, muốn chủ hòa, còn các đại thần Đoan Quận vương Tái Y, Bối lặc Tái Liêm (载濂) cùng Quân cơ đại thần Cương Nghị (刚毅) muốn Thái hậu ủng hộ Nghĩa Hòa Đoàn, bịa đặt ra cái gọi là “Đoàn ngoại giao gửi thông điệp” đến với nội dung: [Thỉnh Thái hậu hoàn chính, truất Đại a ca]. Từ Hi Thái hậu cực kỳ tức giận, bèn ra chỉ dụ: [Bọn nước ngoài vô lý đến thực quá lắm, ta tất sẽ báo thù!], thế là ngày 25 tháng 5 ra một cái [Chỉ dụ].

Thế rồi sau 4 ngày "tuyên chiến", Từ Hi Thái hậu lại tỏ vẻ lưỡng lự, đối với các tòa công sứ nói: [Triều đình thận trọng bang giao, cũng không khiêu khích!]. Quân đội triều đình đứng về phía các thành viên Nghĩa Hòa Đoàn tiêu diệt khoảng 2,000 binh lính và hàng trăm dân thường ngoại quốc. Các nhà ngoại giao, tướng lĩnh, thường dân nước ngoài cũng như một vài tín đồ Cơ Đốc Giáo người Hoa phải rút lui tới các tòa công sứ và cầm cự 55 ngày cho đến khi 8 nước gửi 20,000 quân tới giải cứu. Thế cuộc không ổn thỏa, Từ Hi Thái hậu gửi thông ngôn đến các tòa thông sứ tỏ vẻ: [Đám loạn dân này, thiết nghĩ các khanh nên tự hành xử].

Từ Hi Thái hậu qua loa quyết định tuyên chiến, Quang Tự Đế nhịn không được phải hỏi Lại bộ Thị lang Hứa Cảnh Trừng (许景澄) rằng:"Hứa khanh đi sứ nước ngoài nhiều năm, lại ở Tổng thự làm việc, việc ở ngoại quốc thì khanh là rõ nhất, thế khanh có nghĩ Đại Thanh có thể thắng ngoại quốc qua một cuộc chiến chính quy không?". Hứa Cảnh Trừng tâu:"Thánh thượng đã hỏi, thần xin nói thẳng. Tình hình hiện tại khó có phần thắng, ngược lại nên hòa hoãn liên minh khôn khéo với họ". Từ Hi Thái hậu nghe thế thì nổi trận lôi đình, đem Hứa Cảnh Trừng và một số người chủ hòa như Thái Thường tự khanh Từ Dụng Nghi (徐用仪), Hộ bộ Thượng thư Lập Sơn (立山) cùng Nội các Đại học sĩ Liên Nguyên (联元) xử tử tập thể.

Ngày 14 tháng 8 năm ấy, Liên quân đánh bại quân chính quy nhà Thanh, chiếm đóng Bắc Kinh , giải vây khu lãnh sự. Tiếp đó liên quân cướp phá Bắc Kinh và các khu vực lân cận, hành quyết các tù binh tình nghi là thành viên Nghĩa Hòa Đoàn bị bắt. Bắc Kinh thất thủ, ngày 15 tháng 8 (tức ngày 21 tháng 7 âm lịch), cả hoàng tộc và bá quan văn võ phải rời Tử Cấm Thành đến Tây An lánh nạn.

Liên quân 8 nước sau đó gửi một loạt yêu sách tới Từ Hi Thái hậu và Quang Tự Đế. Rất nhiều quan đại thần kiến nghị triều đình nên tiếp tục cuộc chiến chống ngoại quốc. Tuy nhiên, Từ Hi Thái hậu đã nhận ra sai lầm khi khiêu khích các liệt cường phương Tây. Bà hiểu rõ Nghĩa Hòa Đoàn hay quân đội yếu ớt của triều đình không có cơ hội chiến thắng liên quân hùng hậu cùng trang thiết bị hiện đại của họ. Thêm vào đó, Liên quân cam kết tiếp tục để nhà Thanh cai trị Trung Quốc (thực ra phải là hạn chế tối đa sự can thiệp bởi họ cần một chính quyền đủ mạnh để đàn áp các tư tưởng bài ngoại khác trong tương lai, cũng như đủ yếu ớt để dễ bề thao túng). Hoàng đế Trung Hoa vẫn là lãnh đạo tối cao của một nước Trung Quốc độc lập. Để tránh đổ máu vô ích, Từ Hi Thái hậu liền gửi Lý Hồng Chương - thuyết khách số một của mình - đi đàm phán.

Năm Quang Tự thứ 27 (1901), hòa ước Tân Sửu được ký kết. Triều đình cam kết duy trì sự hiện diện của phương Tây ở Bắc Kinh, mở cửa tất cả thương cảng của mình cho người nước ngoài tự do buôn bán, đồng thời phải bồi thường chiến phí 450 triệu lượng bạc, tương đương với 67 triệu bảng Anh và bằng một năm thu nhập của triều đình.

Trong số các nước đế quốc nhận bồi thường thì Hoa Kỳ dùng phần bồi thường của mình để lập ra trường Đại học Thanh Hoa ngày nay. Ngoài ra, Nhà Thanh còn phải cử Thân vương và đại thần sang Đức và Nhật bày tỏ hối tiếc, bắt giam và xử tử những kẻ chủ chiến, mở rộng thêm 1200 mẫu đất cho các đế quốc lập tô giới và để các đế quốc lập đội quân đồn trú trong 12 địa điểm từ kinh sư tới biển. Những nơi nào trước đây có sự ngược đãi người nước ngoài thì phải cấm thi trong 5 năm, nếu còn tổ chức thi cử thì quan lại địa phương sẽ bị cắt chức ngay. Khoảng 18 tháng sau khi điều ước được ký kết, Từ Hi Thái hậu và Quang Tự Đế quyết định về lại Bắc Kinh.

Dự bị lập hiến

Tranh vẽ Từ Hi Thái hậu của Katherine Carl trong thời gian sau khi hồi kinh.

Năm Quang Tự thứ 27 (1901), ngày 20 tháng 10 (âm lịch), Phổ Tuấn bị tước đi danh vị [Đại a ca]. Sang ngày 28 tháng 11 (âm lịch) năm ấy, Từ Hi Thái hậu cùng Quang Tự Đế được triều thần bồi hầu trở về Bắc Kinh với một nghi lễ long trọng. Xa giá đi từ Tây An đến phủ Chính Định thì chuyển lên một đoàn tàu hỏa gồm 21 toa chạy thẳng về Bắc Kinh.[40] Khi đến kinh thành, sứ thần các nước cũng như dân chúng đổ ra xem các thành viên trong hoàng tộc.[41]

Sau khi về đến Tử Cấm Thành, Quang Tự Đế bấy giờ không bị giam cầm ở Hàm Nguyên điện nữa, thường xuyên lâm triều dù về cơ bản vẫn bị Từ Hi Thái hậu khống chế. Tuy nhiên khi lên nghe chính sự, ông luôn tỏ ra lãnh đạm thờ ơ, chỉ đến khi Thái hậu hỏi qua, ông mới miễn cưỡng tỏ thái độ đại khái. Từ Hi Thái hậu quyết định sửa đổi chính sách, một số sắc lệnh biến pháp của Quang Tự Đế mà bà đã hủy bỏ vào năm Mậu Tuất (tức năm 1898) bây giờ được lấy ra thực hiện, lại lập nhiều cơ quan mới như hội nghị chính vụ xứ, thượng bộ, học bộ, luyện tân quân, chấn hưng công nghiệp cùng thương nghiệp.

Năm Quang Tự thứ 31 (1905), sĩ phu tại Trung Hoa thấy Đế quốc Nhật theo chế độ quân chủ lập hiến mà mạnh, thắng được Đế quốc Nga theo chế độ quân chủ chuyên chế, nên càng tin ở chế độ lập hiến, và đòi triều đình nhà Thanh phải thực hiện lập hiến theo, chứ chỉ sửa đổi chính sách gọi là [Tân Chính; Chính sách mới] đối với họ vẫn chưa đủ. Ngay một số đại thần người Hán vốn trung với triều Thanh như Trương Chi ĐộngViên Thế Khải cũng chủ trương lập hiến, thế là phong trào lập hiến sôi nổi trong nước. Từ Hi Thái hậu phái năm đại thần đi Nhật, Anh, Đức để khảo sát chế độ lập hiến của ba quốc gia đó. Năm sau, họ trở về đều chủ trương lập hiến, Từ Hi Thái hậu liền xuống dụ: "Trước hết cải cách quan chế rồi đến chính trị, khiến sĩ dân hiểu rõ quốc chính để dự bị cơ sở cho việc lập hiến, vài năm sau, xét lại tình hình, xem tiến bộ mau chóng mà định kỳ hạn xa gần". Rồi triều đình sửa đổi quan chế: đặt ra Tư chính viện ở kinh sư, Tư nghị cuộc ở các tỉnh để làm cơ sở cho Quốc hội và Tỉnh nghị hội, lập thẩm kê viện, thẩm phán sảnh, ban bố Hình luật mới.

Sau cùng, năm Quang Tự thứ 34 (1908), mùa xuân, triều đình ban bố Khâm định Hiến pháp đại cương (钦定宪法大纲) gồm 15 điều. Dự bị chín năm sau sẽ hoàn thành[42].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Từ_Hi_Thái_hậu http://www.historychannel.com.au/classroom/day-in-... http://db.cssn.cn/sjxz/xsjdk/zgjd/sb/jsbml/qsltzcs... http://db.cssn.cn/sjxz/xsjdk/zgjd/sb/jsbml/qslxfcs... http://www.56.com/u11/v_MjYwNjk3NjI.html http://www.aisixiang.com/data/61667.html http://zhidao.baidu.com/question/6163075.html http://www.britannica.com/biography/Cixi http://www.economist.com/node/21531524 http://www.scaruffi.com/politics/dictat.html http://www.thedailybeast.com/witw/articles/2013/10...